Đang tải...
 

Lịch Sử Ngành Đánh Bắt Cá – Ngành Công Nghiệp Trọng Điểm Của Alabama

Lịch Sử Ngành Đánh Bắt Cá – Ngành Công Nghiệp Trọng Điểm Của Alabama

Lịch Sử Đánh Bắt Cá – Ngành Công Nghiệp Trọng Điểm Của Alabama

Đánh bắt cá xuất hiện vào năm 1960 với sự xuất hiện của của một trại cá giống nhỏ nằm tại vùng Greensboro, quận Hale, phía tây Alabama. Theo dòng chảy lịch sử, phương pháp và công nghệ đánh bắt cá đã có sự phát triển và cải tiến vượt bậc. Hiện đã có khoảng 3000 nhân sự trong ngành này. Những quận có sản lượng thủy sản cao nhất bang là Dallas, Greene, và Hale.
Sau những đợt suy thoái vào những năm đầu 2000, ngành công nghiệp này đã chững lại và phát triển tương đối ổn định. Hiện nay, Alabama cùng với Arkansas, Mississippi là một trong những bang hàng đầu nước Mỹ trong sản xuất thủy hải sản.
Những điều kiện thuận lợi về môi trường là điều kiện tạo nên thành công của ngành nghề này, bao gồm mùa ấm kéo dài, địa hình thích hợp, đất giữ nước, lượng mưa và nước sông dồi dào để duy trì ao nuôi.
Bên cạnh đó những yếu tố như kinh tế như chi phí năng lượng thấp, hệ thống giao thống tốt và các chuyên gia đến từ trường đại học Auburn University.
Thêm vào đó, loài cá được nuôi tự bản thân cũng đã rất thích hợp để chăn nuôi. Chúng chỉ cần được cho ăn một lần một ngày, vì dạ dày của chúng có thể chứa thức ăn trong nhiều giờ và có khả năng thích nghi cao với nhiều điều kiện sống khác nhau.

Nền Móng Đầu Tiên Của Ngành Đánh Bắt Cá

Ngành công nghiệp này được khởi nguồn khi cư dân quận Hale Chester O. “Check” Stephens (là một nhân viên bán thức ăn chăn nuôi) và Richard True (một nông dân chăn nuôi gia xúc và trồng bông) quyết định thử ấp cá da trơn giống cho mục đích thương mại. Họ cùng với một người nông dân tên Bryant Allen tìm kiếm thông tin và các lời khuyên của chuyên gia.

Đặc biệt là hai nghiên cứu nổi bật: Đầu tiên là, các nhà nghiên cứu của Cơ quan Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ đã thành công trong việc nhân giống cá da trơn ở Oklahoma bằng cách tiêm hormone vào cá và cho các cặp sinh sản (đẻ trứng) khi được nuôi trong các bể thủy tinh riêng lẻ. Và thứ hai là, trong những năm 1920, các chuyên gia thủy sản ở Kansas đã giúp mở đường cho việc sản xuất cá da trơn thương mại bằng cách phát triển máng ấp và bánh guồng để sục khí cho nước trong đó.

Từ đó, True đã sử dụng hai ao và nước giếng trong trang trại của mình. Họ lấy cá bố mẹ, con cái trưởng thành và con đực trưởng thành màu mỡ rồi thả chúng vào một trong những cái ao. Những người đàn ông chế tạo hầu hết các thiết bị cho trại giống của họ, bao gồm bể cá, giỏ sinh sản, máng ấp và bánh guồng.

Từ đó, công ty STRA của ba người được thành lập. Tên STRA là sử dụng các chữ cái của những người sán lập. Vào mùa hè năm 1961, họ đã nỗ lực sinh sản lứa cá da trơn đầu tiên, gần 50.000 con cá bột (cá mới nở). Vào mùa thu, những người sáng lập cần tìm thị trường cho cá. Stephens đã nói về loài cá này cho bất kỳ ai muốn lắng nghe khi anh đi khắp nơi để bán hạt giống. Tin tức lan truyền nhanh chóng và làm dấy lên sự tò mò của nông dân cũng như công chúng về dự án kinh doanh mới, và nhiều người muốn mua cá giống để tự nuôi hoặc bắt đầu trang trại của riêng mình.

Không có nhiều kinh nghiệm thu hoạch và vận chuyển cá, ba người đàn ông suýt không có đủ cá để giao đến tay khách hàng. Tuy nhiên, dần dần các chủ trại giống đã học được những phương pháp tốt hơn. Với các khoản vay, công ty đã mua thiết bị tốt hơn và tăng sản lượng.

Những Sự Cạnh Tranh Đầu Tiên Trong Ngành Đánh Bắt Cá

Khi có nhiều đối thủ cạnh tranh tham gia vào ngành, sản xuất các sản phẩm có thể bán được trên thị trường với giá rẻ hơn nhiều so với STRAL. Vào năm 1969, Stevens, True và Glover đã bán doanh nghiệp của mình cho Nebraska Consolidated Mills, công ty mà sau này trở thành gã khổng lồ kinh doanh nông nghiệp ConAgra.

Năm 1970, Glover bắt đầu công việc kinh doanh của riêng mình, Farm Fresh Catfish Company, công ty mà ông dẫn dắt cho đến năm 1983. Ông đã đưa ra một số cải tiến trong chế biến cá da trơn, bao gồm cả việc bổ sung quá trình giũa.

Ông cũng bổ sung một hệ thống kiểm soát chất lượng để ngăn chặn việc bán cá có hương vị kém và thuyết phục các nhà sản xuất nuôi cá giống quanh năm chứ không chỉ trong mùa hè.

Sự thay đổi trong thực tế này khiến cá da trơn có sẵn quanh năm, một yêu cầu để tăng nhu cầu tiêu dùng về cá.

Những Khó Khăn Trong Buổi Ban Đầu

Vào những năm 1970, công chúng không coi cá da trơn là thức ăn ngon. Mỗi một khi có một trang trại mới mở ra, thị trường tràn ngập trong biển cá. Giá cả vì thế đã bị giảm xuống thấp đến mức một số nông dân không thể kiếm đủ tiền để trang trải chi phí. Khi không đủ chi phí, không có đủ cá giống, giá cá lại trở nên đắt đỏ.
Các vấn đề về sản xuất thức ăn đã đẩy giá thức ăn lên cao đến mức nông dân không đủ khả năng nuôi cá đầy đủ hoặc càng lâm vào cảnh nợ nần.
Ao nuôi ngày càng đông đúc, chất lượng nước giảm sút và cá bắt đầu mắc bệnh. Số lượng cá lớn hơn tiêu thụ nhiều oxy hơn và tạo ra nhiều chất thải hơn, do đó sử dụng hết oxy khi phân hủy trong nước. Tình trạng thiếu oxy này đã khiến hàng chục nghìn con cá chết, đặc biệt là trong những đêm hè nóng bức.
Vào đầu những năm 1960, các nhà nghiên cứu đã phát triển một máy đo oxy mà nông dân có thể theo dõi lượng oxy hòa tan trong ao của họ, nhưng nhiều nỗ lực nhằm cải thiện lượng oxy trong nước đều thất bại.
Tình trạng quá tải trong ao cũng tạo điều kiện cho bệnh tật phát triển mạnh và ký sinh trùng, nhiễm vi khuẩn và virus dẫn đến thiệt hại nặng nề. Nông dân điều trị bệnh bằng nhiều loại hóa chất và kháng sinh.
Tuy nhiên, trong những năm 1970, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã tuyên bố nhiều loại hóa chất này, bao gồm một số loại hiệu quả nhất như nitrofurazone và malachite green, không được phép sử dụng trong nuôi trồng thủy sản vì những tác động có hại của chúng đối với môi trường, người nông dân và người tiêu dùng. Chỉ một số phương pháp xử lý còn lại được chấp thuận để sử dụng làm thức ăn cho cá, chủ yếu chỉ là muối ăn hoặc natri clorua cho cá ao và iốt cho trứng.

Cú Trở Mình Trong Phương Pháp

Vào những năm 1070, các phương pháp và công nghệ dùng để ấp và nuôi cá da trơn cũng thay đổi khi ngành này phát triển. Nông dân đã thay đổi phương pháp xây dựng ao và bắt đầu sử dụng máy móc để hỗ trợ thu hoạch.
Vào thời điểm này, hai sinh viên tốt nghiệp Đại học Auburn đã phát minh ra chiếc tất phân loại, cho phép người thu hoạch chọn kích cỡ cá mà họ thu hoạch. Và những phát triển khác giúp có thể thu hoạch quanh năm và tăng nguồn cung cho người tiêu dùng. Các nhà nghiên cứu đã phát triển các loại thức ăn bổ dưỡng hơn giúp cá phát triển nhanh hơn, to hơn và khỏe mạnh hơn, đồng thời nông dân bắt đầu thả ngày càng nhiều cá giống vào ao của mình.
Khoảng năm 1975, Lenson Montz, một nông dân nuôi cá da trơn ở Greensboro và anh rể của ông, Otis Breland, đã chế tạo một máy sục khí bánh guồng giúp oxy hóa nước ao một cách hiệu quả bằng cách tạo ra dòng điện mạnh. Những người nuôi cá ở Alabama và các bang khác ngay lập tức xây dựng phiên bản của riêng họ và ngày nay hầu như mọi trang trại nuôi cá da trơn đều có sục khí bằng bánh guồng.
Những thay đổi khác cũng giúp củng cố ngành công nghiệp này. Lúc đầu, các nhà chế biến cạnh tranh để giành khách hàng thông qua cuộc chiến về giá, nhưng dần dần, các nhà chế biến đã hợp tác với nhau và vào năm 1971 bắt đầu thành lập các hiệp hội tiếp thị để quảng bá cá da trơn tới người tiêu dùng một cách tổng quát thay vì theo nhãn hiệu.

Ngành Đánh Bắt Cá Đã Trở Lại

Năm 1983, Trung tâm Nuôi cá Alabama được thành lập tại Greensboro bởi Cơ quan Khuyến nông Hợp tác Alabama, Cơ quan Bảo tồn Đất, Trạm Thí nghiệm Nông nghiệp và nỗ lực của người dân địa phương. Mục đích của trung tâm là cung cấp nguồn thông tin về thiết kế, quản lý ao nuôi và giữ cho cá khỏe mạnh.
Cùng thời gian đó, nông dân Alabama đã tự tổ chức thành một nhóm để cố gắng giải quyết các vấn đề chung của họ. Họ làm việc với các nhà lập pháp tiểu bang để xây dựng luật giải quyết vấn đề cạnh tranh từ cá da trơn nhập khẩu và tổn thất đối với các loài chim săn mồi như diệc và chim cốc, sống thành từng nhóm lớn quanh ao và ăn cá giống.
Một số luật mới yêu cầu các gói cá da trơn nuôi tại trang trại phải được dán nhãn giúp người tiêu dùng có khả năng lựa chọn cá nuôi ở Alabama. Những luật khác cho phép nông dân bắn những con chim mà họ quan sát thấy đang tích cực săn cá của họ.
Các nhà máy chế biến trải dài từ các công ty nhỏ do cá nhân hoặc gia đình điều hành đến các nhà máy lớn, chẳng hạn như Công ty Cá da trơn tươi Trang trại Glover. Farm Fresh được bán vào năm 1983 cho một công ty chế biến thịt lớn và cuối cùng chuyển ra khỏi tiểu bang.
Ngay sau khi mua bán, con trai của Glover, Joe Jr., đã thành lập Công ty Cá da trơn Southern Pride, có trụ sở tại Demopolis và Greensboro, trở thành nhà chế biến hàng đầu của Hoa Kỳ. Năm 2003, nó được bán cho tập đoàn chế biến hải sản đa quốc gia American Seafoods Group.
Vào những năm 1980, cơ giới hóa đã có chỗ đứng vững chắc hơn trong ngành. Máy móc được sử dụng để thực hiện phần lớn công việc thu hoạch mà trước đây phải thực hiện bằng tay.
Quá trình xử lý trở nên cơ giới hóa hơn cũng như tự động hóa hơn. Cá đã được kiểm tra trước khi chúng được chế biến, đóng gói và bán, và hương vị kém đã trở thành vấn đề ít hơn.
Vào đầu những năm 1990, các nhà chế biến ở Alabama đã thực hiện kiểm tra vệ sinh tại các nhà máy của họ để đảm bảo với người tiêu dùng rằng cá họ mua an toàn để ăn. Vào thời điểm này, cá da trơn đã được người tiêu dùng chấp nhận nhiều hơn như một loại cá thực phẩm.
Đến năm 2000, hầu hết cư dân của Quận Hale đều có công việc liên quan đến nuôi hoặc chế biến cá da trơn.

Suy Thoái Và Phát Triển Bền Vững

Vào những năm 2000, ngành công nghiệp này bắt đầu suy giảm do một số yếu tố, bao gồm giá thức ăn tăng mạnh, suy thoái kinh tế nói chung và một chủng vi khuẩn từ Trung Quốc, Aeromonas hydrophila, làm chết nhiều loài cá và có thể gây bệnh cho con người.
Vi khuẩn phát triển mạnh ở vùng khí hậu ấm áp và nhiệt độ toàn cầu tăng cao đã thúc đẩy sự lây lan của nó. Giá điện và nhiên liệu tăng cũng có tác động tiêu cực. Một thay đổi khác ảnh hưởng tiêu cực đến doanh số bán hàng là kích thước cá da trơn tăng lên, khiến hầu hết các nhà chế biến từ chối cá.
Tuy nhiên, nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự suy giảm của ngành cá da trơn ở Alabama là sự cạnh tranh từ Việt Nam và Trung Quốc. Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008 đã cho phép các thị trường nước ngoài đáp ứng hầu hết nhu cầu về cá, nhưng các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ kể từ đó đã quảng bá chất lượng vượt trội của cá da trơn được nuôi ở Alabama và các cơ sở được quản lý tốt hơn ở đây.
Năm 2016, Hoa Kỳ sản xuất tổng cộng 363 triệu pound cá da trơn và Alabama sản xuất 1/3 tổng số này, với 120 triệu pound. Cá da trơn Alabama chiếm 34% doanh thu toàn quốc, ở mức 130 triệu USD.
Các mức thuế mới và việc chuyển giao trách nhiệm cho Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ từ Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đã tăng cường quy định đối với các sản phẩm cá da trơn nhập khẩu kể từ năm 2018 nhưng hiện tại sản lượng và doanh số của Alabama vẫn ở mức ổn định.
 

đọc thêm

Bài viết liên quan

  • Uy tín hàng đầu Sản phẩm độc quyền

  • Miễn phí vận chuyển Nội thành TP.Hồ Chí Minh

  • Giao hàng tận nơi Thu tiền tận nhà

  • Thanh toán linh hoạt Thanh toán sau (COD)

TƯ VẤN MIỄN PHÍ
Chat với chúng tôi qua Zalo
Chat ngay để nhận tư vấn
Gọi ngay để được tư vấn